Cộng hòa Liên bang Đức (tiếng Đức: Bundesrepublik Deutschland; gọi tắt: Đức) là một quốc gia liên bang nằm ở Trung Âu và có chung đường biên giới với các nước Đan Mạch (về phía Bắc), Ba Lan và Séc (phía Đông), Áo và Thụy Sĩ (về phía Nam), Pháp, Luxembourg, Bỉ và Hà Lan (về phía Tây). Lãnh thổ Đức trải rộng 357.021 km vuông và có khí hậu ôn đới. Với 82 triệu người, Đức là nước có dân số lớn nhất trong Liên minh châu Âu và là nước có số dân nhập cư lớn thứ ba trên thế giới.
Mẫu Powerpoint về văn hoá Việt nam – chủ đề trung thu
https://drive.google.com/file/d/15PhMp460i-uwREfvEHCT080dY9_ujIR1/view?usp=share_link
Trên đây là bài viết cung cấp Mẫu Powerpoint về văn hóa Việt Nam tới bạn đọc. Bạn hãy tải về và sử dụng ngay cho bài thuyết trình của mình nhé.
Mọi người đều biết rằng, người Việt Nam chúng ta rất thiết tha với lịch sử đất nước, với những kì tích của cha ông. Khi sách vở chưa có, thì người dân chúng ta ở khắp nơi vẫn truyền tụng nhau những câu chuyện trong dã sử. Những gương sáng của tiền nhân. Ngay cả những câu chuyện cổ tích, những câu ca dao, rồi những chuyện thánh thần ở đền này, miếu nọ lịch sử thường để lại những dấu hiệu thực hư, người ta dẫu biết là huyền tích xa xôi, nhưng có kẻ vẫn tin như là chuyện thực lịch sử. Sau này, do ảnh hưởng của văn hoá giáo dục Trung Quốc chúng ta mới chính thức làm quen với lịch sử, trước tiên là theo kiểu quan phương. Nhà nước có thành lập Quốc sử quán, các sử thần được trọng dụng rồi những bộ sử chính thức ra đời. Đời nhà Trần có Đại Việt sử ký, đời nhà Lê có Toàn thư, đời nhà Nguyễn có bộ Cương mục. Kèm theo đó, còn có những bộ Chí, bộ Lục v.v… có thể viết ở nước ngoài (như An Nam chí lược) hoặc có thể cũng giao cho các sử thần phụ trách (như Đại Nam thực lục). Rồi còn có những bộ sách của các cá nhân rất bề thế, rất hoành tráng (như Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú). Việc ham thích chuyện sử, chuyện chí này, có thể nói là phổ biến toàn dân, tuỳ theo hoàn cảnh mà có tầm rộng hẹp khác nhau (như loại hương biện, xã chí, huyện chí v.v…) có thể nói, với người Việt, chuyện ham thích lịch sử là phổ cập và cũng có truyền thống rõ ràng.
1. Biên soạn lịch sử một quốc gia, một dân tộc, điều mà các tác gia (kể cả những đại gia) băn khoăn, suy ngẫm nhiều hơn cả trước khi bắt tay vào công trình, đó là việc phân định thời kì lịch sử. Ở phương Đông, sử sách các nước, nhất là Trung Quốc, tất nhiên phải căn cứ vào các vương triều để định mốc cho các thời kì lịch sử. Ở phương Tây, vấn đề phức tạp hơn nhiều. Có người đề nghị nên phân theo các thế kỉ rõ rệt hơn về mặt thời gian. Có người lại đề nghị nên chia theo giai đoạn lịch sử xã hội. Thời Thượng cổ, thời Trung cổ, thời Cận cổ, thời Hiện đại v.v… Có người viết sách (không phải là sử toàn diện, “thông sử”) lại chủ trương lấy những sự kiện trọng đại nhất của các giai đoạn mà chia ra, thí dụ thời kì đại chiến thế giới lần thứ nhất; sau đại chiến thế giới lần thứ hai v.v… Ngay ở nước ta đã từng có ý kiến trao đổi và tranh luận có nên lấy năm 1930 làm một cái mốc lịch sử hay không (ngay cả trong “Văn học sử” cũng băn khoăn điều này). Gần đây lại có ý kiến sắp xếp các thời gian lịch sử theo trình tự của các Đại hội Đảng v.v… Có thể nói vấn đề phân kỳ luôn luôn đòi hỏi một sự nghiên cứu thấu đáo.
Ở tập sách Việt Nam sử lược này, Trần Trọng Kim đã rất khéo léo sắp xếp việc phân kì làm sao cho tiện với trí nhớ phổ thông mà không gây ảnh hưởng gì đến các vấn đề quan điểm lập trường của người viết cũng như người đọc. Ông không theo cách sắp xếp của các sử gia cũ, chia theo kiểu Tiền biên, Chính biên. Ông cũng căn cứ vào các triều đại, nhưng lại không gây cảm tưởng về sự khẳng định những vương triều. Ông chia ra thành quyển, Quyển I là Thượng cổ thời đại, Quyển II là Bắc thuộc thời đại, Quyển III – IV là Tự chủ thời đại, Quyển V là Cận kim thời đại. Ở từng thời đại như vậy, ông có điểm đến các triều nhà Lý, nhà Trần, nhà Lê, nhà Nguyễn và cũng theo các đời vua mà ghi chép, phản ánh tình hình. Có triều vua viết ngắn chỉ vài dòng, có triều vua được viết dài hơn và cố giữ lấy sự khách quan trong nhận định. Dù sao thì cách phân chia và biên soạn như vậy cũng cho người ta thấy rõ ràng hơn các diễn biến của những thời kì khi cần tra cứu đỡ sự nhầm lẫn, nhất là không bị ảnh hưởng bởi thiện cảm hay ác cảm với triều đại. Những chuyện gây hấn, xâm lược, thủ đoạn tốt xấu v.v… đều được kể ra một cách tự nhiên. Các nhà Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh đều được điểm đến như nhau theo một giọng văn đều đặn. Riêng có sự kiện quân Pháp xâm lược thì ông phải lựa lời nói cho khéo, vì sách viết dưới chế độ thực dân. Sách Việt Nam sử lược được chính thức lưu hành, mà lại có vị trí, có ảnh hưởng nhất định, đó là do cái tài của người viết.
2. Điều quan trọng nữa trong việc viết sử là sự phản ánh các diễn biến lịch sử, từ thời đại này sang thời đại khác. Ta cũng thấy ở đây, Trần Trọng Kim có cách sắp đặt diễn tả khá tài tình mà gọn nhẹ. Các chương sách về nhà Lý, nhà Trần, nhà Hồ, nhà Lê, kể ra những thời kỳ nước ta bị đô hộ, Trần Trọng Kim đều điểm qua trên các bình diện chính trị, xã hội, không hề bỏ sót. Mọi việc võ công, văn trị, sự học hành, trạm dịch, binh chế, thuế khoá, sưu dịch quan lại v.v… đều được điểm đến rất gọn gàng mà đầy đủ, làm sáng rõ được tình hình. Văn phong của các nhà sử học rất điềm tĩnh, nhẹ nhàng, cần cân nhắc, cần gay gắt hay thiết tha hơn đều thấy rất rõ. So sánh với cách phản ánh của các sử gia chính thống (qua các bộ Toàn thư, Cương mục) ta thấy Trần Trọng Kim tỏ ra toàn diện mà lại thấu đáo hơn. Không nên quên rằng những điều ông viết đây là thu lượm ở cả một kho tàng rành mạch có mà phức tạp cũng có. Vậy mà ông lại đưa tất cả khối lượng sử liệu bề bộn, rối rắm thành ra những trang diễn dịch có lớp lang có đầu cuối phân minh như vậy thì thực là tài giỏi. Người đọc bây giờ chắc không có điều kiện đối chiếu. Vậy xin lưu ý ai có điều kiện và tư liệu thì nên mở những trang viết trong sách giáo khoa tiểu học ngày xưa: quyển Sử ký giáo khoa thư lớp sơ đẳng(1). Rất nhiều mẩu trong sách giáo khoa này là nguyên văn rút từ tập sách Việt Nam sử lược, và đó là những đoạn trích đầy đủ, khái quát lại, hào hứng, trơn tru khiến cho trẻ em lúc ấy đã có thể thuộc lòng. Phản ánh lịch sử được như thế quả là xuất sắc.
3. Một vấn đề nữa mà giới sử học (cũng như bạn đọc nhiều thế hệ) rất quan tâm khi xem một tác phẩm lịch sử là cần biết sự nhận định của sử gia đối với các nhân vật, các sự kiện lịch sử như thế nào. Từ bao đời nay, tiếng nói của nhà chép sử (ngày xưa là tiếng nói của sử thần) được cho là chính xác, là công bằng nhất. Ngòi bút viết sử được gọi là “Xuân Thu sử bút” là vì vậy. Bút Xuân Thu là công lý, là phán quyết theo sự thực, theo chính nghĩa, có thể không phải tuân theo sự thực hiện hành mà chỉ theo sự thật bản chất là đúng với chân lý rồi. Ở Trung Quốc đã có nhiều sử gia kiên quyết ghi chép (đánh giá) theo sự thật bản chất này mà bị những ông vua giết hại, song nhà sử học không sợ, vẫn cứ tuân theo chân lý, theo lẽ công bằng. Trần Trọng Kim có được cái bản lĩnh ấy không? Ta không dám chắc, vì dù sao ông cũng là nhà chép sử trong hoàn cảnh đất nước bị nô lệ. Nếu ông chép đúng sự thực là đất nước bị chiếm đoạt, dân bị bóc lột đàn áp… thì chưa nói kết quả gì sẽ dẫn đến với ông, mà sách rõ ràng là không thể in ra được. Phải thấy đúng sự thực ấy để có cách nhìn nhận tập sách Việt Nam sử lược này. Việt Nam sử lược không thể ví được với sách Bản án chế độ thực dân Pháp, vì bản án này được viết ở Pháp mà lại là một tác phẩm tuyên truyên đấu tranh cách mạng. Nhà cầm quyền có thể theo dõi, đề phòng hoặc cấm đoán chứ không thể làm gì tác giả được. Dù sao thì trong Việt Nam sử lược cũng có một trường hợp chứng tỏ Trần Trọng Kim đã rất can đảm, rất đúng đắn để giữ được sự công bằng. Đó chính là trường hợp ông viết về cuộc khởi nghĩa Tây Sơn và công lao, đức độ của vua Quang Trung. Các cuốn sách về sử (cả về sáng tác) liên quan đến Tây Sơn lúc bấy giờ vẫn phải dè dặt, nhưng Trần Trọng Kim thì đàng hoàng biện luận. Việt Nam sử lược đã chép về Tây Sơn, biện luận khá dài như sau:
Những người làm quốc sử nước Tàu và nước ta thường chia những nhà làm vua ra chính thống và ngụy triều. Nhà nào, một là đánh giặc mở nước, sáng tạo ra cơ nghiệp; hai là được kế truyền phân minh, thần dân đều phục; ba là dẹp loạn yên dân, dựng nghiệp ở đất Trung Nguyên, thì cho là chính thống. Nhà nào, một là làm tôi cướp ngôi vua, làm sự thoán đoạt không thành; hai là xưng đế, xưng vương ở chỗ rừng núi, hay là ở đất biên địa; ba là những người ngoại chủng vào chiếm nước làm vua, thì cho là ngụy triều.
Vậy nay lấy những lẽ ấy mà xét xem nên cho nhà Nguyễn Tây Sơn làm chính thống hay ngụy triều, để cho hợp lẽ công bằng và cho xứng cái danh hiệu những người anh hùng đã qua.
Nguyên nước ta là nước quân chủ, lấy cái nghĩa vua tôi làm trọng hơn cả, thế mà từ khi nhà Lê trung hưng lên trở về sau, họ Nguyễn hùng cứ phương Nam, họ Trịnh xưng chúa miền Bắc; trên tuy còn tôn vua nhưng mà quyền về cả nhà chúa. Trong nước ta đã có vua lại có chúa, làm thành ra vua không phải là vua, tôi không phải là tôi, ấy là một thời loạn. Đến sau ở trong Nam thì có Trương Phúc Loan chuyên quyền làm bậy, ở ngoài Bắc thì có kiêu binh làm loạn, giết hại quan đại thần, vua chúa phải nhún mình mà chiều đãi, đình thần phải khoanh tay mà chịu một bề, ấy lại là một lúc đại loạn vậy.
Lúc ấy anh em Nguyễn Nhạc là người dân mặc áo vải, dấy binh ở ấp Tây Sơn, chống nhau với chúa Nguyễn để lập nghiệp ở đất Quy Nhơn. Tuy rằng đối với họ Nguyễn là cừu địch, nhưng mà đối với nước Nam, thì chẳng qua cũng là một người anh hùng lập thân trong lúc biến loạn đó mà thôi.
Còn như Nguyễn Huệ là vua Thái Tổ nhà Nguyễn Tây Sơn, thì trước giúp anh bốn lần vào Gia Định đều được toàn thắng, phá hai vạn quân hùm beo của Xiêm La, chỉ còn được mấy trăm người lủi thủi chạy về nước; sau lại ra Bắc Hà, dứt họ Trịnh; tôn vua Lê, đem lại mối cương thường cho rõ ràng. Ấy là đã có sức mạnh mà lại biết làm việc nghĩa vậy.
Nhưng vì vua nhà Lê nhu nhược, triều thần lúc bấy giờ không ai có tài kinh luân, lại để cho Trịnh Bồng và Nguyễn Hữu Chỉnh nối nhau mà chuyên quyền, đến nỗi thành ra tán loạn. Dẫu thế mặc lòng, khi Nguyễn Huệ giết Vũ Văn Nhậm rồi, không nỡ dứt nhà Lê, đặt Giám Quốc để giữ tông miếu tiền triều; như thế thì cách ở với nhà Lê không lấy gì làm bạc.
Sau vua Chiêu Thống và bà Hoàng Thái Hậu đi sang kêu cầu bên Tàu, vua nhà Thanh nhân lấy dịp ấy mượn tiếng cứu nhà Lê, để lấy nước Nam, bèn sai binh tướng sang giữ thành Thăng Long. Bấy giờ cứ theo như tờ mật dụ của vua nhà Thanh thì nước Nam ta, bề ngoài tuy chưa mất hẳn, nhưng kỳ thật đã vào tay người Tàu rồi.
Vậy nước đã mất, thì phải lấy nước lại, ông Nguyễn Huệ mới lên ngôi Hoàng Đế, truyền hịch đi các nơi, đường đường chính chính, đem quân ra đánh một trận phá 20 vạn quân Tàu, tướng nhà Thanh là Tôn Sĩ Nghị phải bỏ cả ấn tín mà chạy, làm cho vua tôi nước Tàu khiếp sợ, tướng sĩ nhà Thanh thất đảm. Tưởng từ xưa đến nay nước ta chưa có võ công nào lẫm liệt như vậy.
Vả đánh đuổi người Tàu đi lấy nước lại mà làm vua thì có điều gì mà trái đạo? Há lại chẳng hơn nhà Lý, nhà Trần nhân lúc ấu quân, nữ chúa, mà làm sự thoán đoạt hay sao? Vậy thì lấy lẽ gì mà gọi là ngụy? Huống chi sau vua nhà Thanh cũng công nhận cho ông Nguyễn Huệ làm vua nước Nam, và lại sai sứ sang phong cho ông làm An Nam Quốc vương theo như lệ các triều trước, như thế thì nhà Nguyễn Tây Sơn mở nước có khác gì nhà Đinh và nhà Lê không?
Tuy rằng chẳng được bao lâu nhà Nguyễn Tây Sơn sinh ra nội loạn, vua Thế Tổ Cao Hoàng nhà Nguyễn lại thu phục được cơ nghiệp cũ mà nhất thống cả Nam Bắc lại làm một, nhưng việc thành bại hưng vong là mệnh trời, vả lại khi hai người anh hùng đuổi một con hươu, tất là người nọ gọi người kia là cừu địch. Vậy lấy lẽ tôn bản triều mà xét thì nhà Nguyễn Tây Sơn là ngụy, mà lấy công lý mà suy thì vua Quang Trung Nguyễn Huệ là một ông vua cùng đứng ngang vai với vua Đinh Tiên Hoàng, vua Lê Thái Tổ, mà nhà Nguyễn Tây Sơn cũng là một nhà chính thống như nhà Đinh và nhà Lê vậy.
Ngoài đoạn văn xuất sắc ấy, có lẽ Việt Nam sử lược không còn đoạn nào gây ấn tượng bằng. Còn đối với một số sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử khác, Trần Trọng Kim không có ý kiến gì độc đáo nữa. Một số nhân vật bị ông nhìn nhận theo đạo lý phong kiến ngày xưa – (hình như Trần Trọng Kim vẫn nặng tính chất bảo hoàng, trung thành với triều đại chính thống. Sau này ông cũng vẫn gắn bó với Bảo Đại một cách thiếu sáng suốt như ta đã biết). Với các nhân vật như Hồ Quý Ly, ông vẫn nhận định theo quan điểm lập trường của các sử gia phong kiến ngày xưa, cho đó là những kẻ tham tàn phản bội. Ông không có được cái nhìn của theo quy luật tiến hoá của chúng ta sau này, nên đã có nhiều lời chê trách nặng nề, cũng có phần bất công nữa. Đối với một số nhân vật thời cận đại, Trần Trọng Kim cũng đã có cái nhìn không thoả đáng, có lẽ một phần vì chịu ảnh hưởng của cách đánh giá đương thời. Phải công nhận rằng đất nước ta dưới thời Tự Đức thật là rối ren phức tạp mà sự phẩm bình - thường là của đại đa số - lại rất thiếu công bằng. Thí dụ có các câu thơ gò tên những người cầm quyền để nói lên sự bất bình như:
Nhất giang lưỡng khúc nan phân thuyết
Đánh giá như vậy hoàn toàn là bất công, mà lại còn sai sự thực. Tại các cuộc Hội thảo khoa học ở Huế, ở Thành phố Hồ Chí Minh vào thập kỷ tám mươi của thế kỷ trước, đã có người phản bác rất chính xác về các nhận định này. Nhưng phải thấy là vào hồi cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, dư luận chung là như thế. Chắc chắn Trần Trọng Kim đã chịu ảnh hưởng của dư luận ấy nên đã có phần khe khắt với các nhân vật trên, nhất là với Tôn Thất Thuyết. Tuy nhiên, ông cũng vớt vát được một điều là rất trân trọng đối với các người con trai của Tôn Thất Thuyết.
Việt Nam sử lược ra đời đã giành được ngay cảm tình của giới nghiên cứu. Người ta ca ngợi Trần Trọng Kim là người có học, đọc rộng rãi (Trần Thanh Mại), người có trình độ bậc thầy (Nguyễn Triệu Luật, Thiếu Sơn) và Việt Nam sử lược đáng coi là bộ sách giá trị (Vũ Ngọc Phan). Vũ Ngọc Phan còn cho Trần Trọng Kim là “Lời lời sáng suốt, giọng lại thiết tha, là một nhà văn có nhiệt tâm, có lòng thành thật” (Nhà văn hiện đại, Tập I, tr. 208). Không thấy có ý kiến gì chê bai về góc độ sử học. Mãi cho đến 1955, trên tập san Văn Sử Địa, số 6, mới có bài của Trần Huy Liệu phê phán rất nặng nề. Trần Huy Liệu muốn “bóc trần quan điểm thực dân và phong kiến của Trần Trọng Kim”. Lúc này (1955), chúng ta đang phải cố gắng kiên định lập trường giai cấp vô sản, phê phán phủ định hàng loạt những lý thuyết và di sản quá khứ, nên sự phê phán nặng nề và thiên lệch là không tránh khỏi. Thật ra, ý kiến của Trần Huy Liệu chỉ đúng ở trường hợp Trần Trọng Kim không đánh giá đúng các văn thân, không nhìn nhận đúng được bản sắc dân tộc. Còn ở nhiều trường hợp khác thì cách phê phán là không chiếu cố đến thực tế khuynh hướng tư tưởng chung trong xã hội bấy giờ - khi tiếp xúc với văn hoá, với văn minh vật chất phương Tây, chúng ta thường bị thua kém ở nhiều mặt, nên phải tự nhận mình là hèn kém. Các nhà Nho Duy Tân cũng cho ta là phận “người ngu nước yếu” (lời Ngô Đức Kế). Những ý kiến theo lối lập luận như thế trong Việt Nam sử lược không phải là sự hạ thấp dân tộc.
Hoàn cảnh người viết Việt Nam sử lược là hoàn cảnh con người đang phải chịu công nhận sự “bảo hộ”, sự định đoạt của bọn cầm quyền. Phải có cách nói bằng nhận định nào đó để có thể tồn tại, có thể sống chung. Ngay những người như Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng v.v… khi buộc phải hợp tác, phải công nhận sự bảo hộ của thực dân, thì cũng phải có cách nói, cách lập luận thích hợp. Ta cũng không nên quên rằng để kết luận quyển sách lịch sử do mình biên soạn, Trần Trọng Kim đã dành hẳn một trang viết về “Lòng yêu nước của người Việt Nam”, trong đó mặc dầu có chỗ tỏ ra ông không hiểu thời cuộc (như gọi các cuộc khởi nghĩa chống Pháp là phiến động) nhưng ông vẫn biết thú thực là “xin để về sau, nhà làm sử sẽ tìm đủ tài liệu mà chép cho rõ ràng và phê bình cho chính đáng”./.
Một con sông có hai đoạn thật khó nói việc chia phần
Bốn tháng ba vua là triệu chứng của sự không tốt.
Thuyết là nói, cũng ám chỉ Tôn Thất Thuyết. Bất tường là không tốt, nhưng cũng ám chỉ Nguyễn Văn Tường. Ở đây nói đến hai vị phụ chính đại thần Thuyết và Tường tranh chia quyền lợi.
Bốn tháng ba vua: Trong vòng bốn tháng (1884) mà triều đình Huế thay đổi đến ba vua - Dục Đức, Hiệp Hoà, Kiến Phúc.